QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂN NUÔI BÒ THỊT

QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂN NUÔI BÒ THỊT
Viết bởi: admin Thuộc danh mục: Tin nông nghiệp Ngày đăng: 2015-09-23 Lượt xem: 9707 Bình luận: 0

QUY TRÌNH KỸ THUẬT CHĂN NUÔI BÒ THỊT

1. Chuồng trại

1.1. Vị trí

          Chuồng nuôi cần được đặt ở nơi cao ráo, thoáng mát, dễ thoát nước, tiện cho sinh hoạt và theo dõi chăm sóc bò. Chuồng xây cao ráo, dễ vệ sinh, không gây ô nhiễm môi trường xung quanh.

1.2.Kiểu chuồng

- Hướng chuồng

         Do điều kiện thời tiết khí hậu nước ta nóng ẩm và gió mùa nên xây dựng chuồng trại bò theo hướng nam hoặc đông nam là hợp lý nhất, đảm bảo mùa hè có gió đông nam mát mẻ, mùa đông dễ dàng che tránh gió mùa đông bắc (đông ấm hè mát). Hướng chuồng này giảm được mưa tạt gió lùa, che bớt được nắng, thoáng mát, ấm và đảm bảo ánh sáng.

- Nền chuồng

       + Diện tích nền chuồng (chỗ đứng) phải theo đúng tiêu chuẩn cho từng loại bò (4-8 m2 /con) và phải cao hơn mặt đất bên ngoài khoảng 40-50cm để nước mưa không thể tràn vào chuồng.

        + Nền chuồng có thể được lát bằng gạch hoặc láng bê tông đảm bảo không gồ ghề, nhưng cũng không trơn trợt, có độ dốc hợp lý (2-3%) để bảo đảm thoát nước dễ dàng khi dội rửa.

- Tường chuồng

        + Tường có thể xây bằng gạch, đá, bằng tấm bê tông (có cột trụ), bằng gỗ hay một số vật liệu khác tuỳ theo điều kiện cụ thể nhưng bề mặt tường phải đảm bảo dễ dàng quét rửa tiêu độc khi cần thiết. Mặt trong của tường nên quét vôi trắng, vừa đảm bảo vệ sinh vừa tạo ra bề mặt phản chiếu ánh sáng trong chuồng tốt.

- Mái chuồng

         + Mái chuồng che mưa nắng và điều hoà tiểu khí hậu xung quanh cơ thể gia súc vì vậy độ cao của mái cần phải tính toán sao cho không bị mưa hắt và gió lạnh thổi vào.

         + Mái che có thể lợp ngói hay tranh để giữ mát. Mái tôn hay fibroximăng rất nóng. Đối với những chuồng lớn, khẩu độ mái rộng thì có thể phải dùng mái tôn, nhưng cần làm mái cao và thoáng.

- Máng ăn:

          Máng ăn và máng uống trong chuồng nên làm riêng để máng ăn luôn được khô, thức ăn không bị ướt, bẩn. Máng ăn không quá sâu, dễ gây tồn đọng thức ăn và khó vệ sinh. Các góc của máng ăn phải được lượn tròn và trơn nhẵn, thành máng phía trong (phía bò ăn) bắt buộc phải thấp hơn thành máng ngoài.

1.3. Một số thông số kỹ thuật tham khảo khi thiết kế chuồng nuôi

a. Cho bò trưởng thành

        + Nếu làm chuồng một dãy xây máng ăn cao ngoài chuồng thì kích thước máng ăn rộng 80cm; cao mặt ngoài 50cm; cao mặt trong 25cm. Lòng máng phải được lượn tròn, trơn nhẵn, đáy máng dốc và có lỗ thoát nước ở cuối để thuận tiện cho vệ sinh máng. Mỗi bò có 50-60cm chiều dài máng ăn. Nếu nuôi thả tự do thì 8 bò cần 1 máng uống.

       + Diện tích chuồng và sân từ 7-9 m2 /con, trung bình 8m2 /con. Mỗi bò có 3m2 mái lợp còn lại là sân bê tông không cần mái che.

       + Nền dốc 2 - 3%, tối đa 4,5%.

       + Mái cao tối thiểu 3m, lợp vật liệu cách nhiệt để chống nóng.

b. Cho bê con

       + Cũi bê con: Kích thước 1,2m x 0,9m x 0,9m, sàn cao cách mặt nền 25 - 33cm (thường dùng cho bê giống sữa) + Bê con sau cai sữa: diện tích nền và sân tối thiểu 4 m2 /con.

       + Máng ăn thức ăn tinh cho bê ăn tự do (cho bê sữa và bê thịt) rộng 25cm, sâu 15cm, đáy máng ăn cao hơn nền 30cm, chiều dài 45 cm/bê.

c. Cho bê hậu bị

       + Diện tích nền và sân: 6-7 m2 /con.

       + Máng ăn rộng 50-60 cm nếu ăn 1 phía, và rộng 75-90cm nếu ăn 2 phía, chiều dài cho mỗi bê 50-60 cm.

2. Nuôi dưỡng chăm sóc vỗ béo theo giai đoạn

2.1. Nuôi bê từ 1 - 5 tháng tuổi.

        + Từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi, nuôi bê tại nhà cạnh mẹ, luôn giữ ấm tránh gió lùa, cho bê nằm chỗ khô sạch.

        + Từ tháng thứ 2, tập cho bê ăn cỏ xanh phơi khô được nắng. Cỏ tươi rửa sạch để ráo, cho bê ăn thức ăn xanh và thức ăn tinh như khẩu phần đã định ở phần trên.

        + Từ tháng thứ 4 trở đi tập cho bê ăn thêm thức ăn củ quả như : khoai lang, bí đỏ,..

        + Trời nắng ấm tập cho bê vận động tự do dưới ánh nắng để bê có đủ Vitamin D3, tạo cho bộ xương cứng cáp.

- Thức ăn:

        + Thức ăn thô: 5 – 7 kg cỏ/con/ngày.

        + Thức ăn tinh: 0,6 - 0,8 kg/con/ngày với 100 gam Protein tiêu hoá và 2.800Kcal/kg.

2.2. Nuôi bê từ 6 - 20 tháng tuổi (nuôi bê hậu bị vỗ béo)

6 tháng tuổi cai sữa cho bê.

         + Phương thức nuôi nhốt: Cho bê ra sân vận động 2 - 4 giờ/ngày. Cung cấp đầy đủ thức ăn xanh, thức ăn tinh hỗn hợp. Thường xuyên cung cấp đủ nước uống cho bê trong giai đoạn này.

         + Phương thức chăn thả: Hiện còn khá nhiều địa phương còn áp dụng phương thức này. Nhưng muốn nuôi bò thịt có hiệu quả kinh tế cao cần đầu tư thâm canh theo quy trình và chăn nuôi bò lai.

- Thức ăn:

        + Thức ăn thô xanh: 6 tháng tuổi: 10 kg/con/ngày; 7 - 12 tháng tuổi: 15kg/con/ngày; 13 - 20 tháng tuổi 30 kg/con/ngày.

        + Thức ăn tinh: 6 tháng tuổi 0,8 - 1 kg/con/ngày với 100 gam Protein tiêu hoá và 2.800Kcal/kg.

2.3. Nuôi vỗ béo bò từ 21 - 24 tháng tuổi

        + Nuôi nhốt giảm vận động, tăng cường cho bò ăn các loại thức ăn giàu dinh dưỡng, cao năng lượng, cho bò tắm nắng 2 giờ/ngày, giảm nhiệt độ và cường độ ánh sáng chuồng nuôi.

        + Những con có trọng lượng lớn, bị bệnh chân móng, cần sửa móng cho bò bằng các dụng cụ sắc như dao, đục và dụng cụ chuyên dùng khác.

        + Thường xuyên tắm chải cho bò để kích thích bò ăn uống khoẻ. Mùa hè tắm 2 lần/ngày. Mùa đông chải khô 1 tuần 2 lần cho bò bằng bàn chải.

        + Xuất bò: Khi bò đã béo đúng tiêu chuẩn, quan sát vùng võng (vùng lưng) đã béo bằng, nông dân ta thường gọi là "bò béo bằng lưng", thì xuất bán.

- Thức ăn:

        + Thức ăn thô xanh: 30 kg/con/ngày (cỏ tươi hay khô, rơm được xử lý mềm hoá và tăng độ đạm).

        + Thức ăn tinh: 1,5 - 2,5 kg/con/ngày với Protein tiêu hoá 100 gam và 2.800 Kcal/kg thức ăn.

        + Nước uống: 50 - 60 lít/con/ngày. Có thể sử dụng muối ăn pha với nồng độ 9%.

3. Vệ sinh phòng trừ dịch bệnh

3.1. Vệ sinh thú y phòng bệnh:

        Để có hiệu quả trong chăn nuôi, việc ngăn ngừa, hạn chế tối đa bệnh cho bò bê là yếu tố tiên quyết đến lợi nhuận của người chăn nuôi.

- Đối với chuồng trại:

       + Máng ăn, máng uống phải được dọn sạch trước khi cho ăn cho uống hàng ngày.

       + Chất thải rắn như phân, rác, thức ăn thừa ... phải được dọn ngày 2 - 3 lần ngay trước lúc cho ăn và phải chuyển ra đúng nơi quy định để xử lý.

       + Nền chuồng được vệ sinh ngày 2 lần bằng cào, chổi và vòi bơm trước lúc cho ăn nhằm đảm bảo vệ sinh, tránh các mầm bệnh theo đường tiêu hoá, hô hấp.

       + Các rãnh trong chuồng phải được quét dọn ngày 2 lần, cống rãnh xung quanh chuồng được dọn vệ sinh định kỳ không được để phân rác tồn đọng.

       + Hàng tháng nên tiến hành khử trùng 2 lần/tháng, sau khi quét vôi xung quanh chuồng, nền chuồng, rắc vôi bột nên cống rãnh thì 15 ngày sau nên dùng thuốc khử trùng phun nên khắp chuồng, tường mái, nền, cống rãnh.

       + Trần chuồng, tường, chấn song, cửa phải được quét dọn định kỳ tránh màng nhện, bụi bẩn.

       + Luôn có ý thức phòng bệnh hơn chữa bệnh, chính vì vậy nên chủ động thực hiện đầy đủ pháp lệnh thú y và quy trình phòng dịch bệnh cho đàn bò. Tốt nhất nên định kỳ lấy mẫu xét nghiệm, kiểm tra, đánh giá môi trường chăn nuôi, tình hình mầm bệnh để sớm có biện pháp tiêu diệt, khử trùng, thanh toán mầm bệnh không cho chúng xâm nhập vào đàn bò.

- Hàng năm tiến hành tiêm phòng định kỳ 2 lần/năm các bệnh truyền nhiễm nhiễm như: Lở mồm long móng, tụ huyết trùng,...theo qui định của thú y. - Tẩy giun đũa cho bê định kỳ vào tháng thứ nhất, tháng thứ 3 và tháng thứ 9 bằng Piperazin 2 - 3g/10 kg trọng lượng. Cho uống hoặc tiêm 5 mg Levamisol/10 kg trọng lượng. Nếu bò ỉa chảy liên tục có mùi tanh khẳm, xù lông sáng sớm và chiều tối cần tẩy sán lá gan bằng cách tiêm bắp: Dovernix 1ml/15 kg trọng lượng, hoặc cho uống Dertil B1 liều lượng viên/ 50 kg trọng lượng.

3.2. Tiêu diệt các nhân tố trung gian truyền bệnh:

        Đối với những bệnh truyền nhiễm có thể lây lan rất nhanh từ con ốm sang con khoẻ qua các nhân tố trung gian thông qua trực tiếp hoặc gián tiếp chính vì vậy ta phải tiêu diệt hoặc hạn chế nguồn bệnh reo rắc ra bên ngoài.

        Để làm được việc đó yêu cầu người chăn nuôi phải phát hiện sớm, chủ động và tích cực, cách ly triệt để những con bệnh xa hẳn những con khoẻ đồng thời kết hợp điều trị trực tiếp những con bị bệnh và điều trị dự phòng những con vật có khả năng lây bệnh.

        Đối với các nhân tố trung gian truyền bệnh cần phải cắt đứt đường truyền bệnh bằng cách xoá bỏ các nhân tố trung gian như vệ sinh thức ăn, nước uống, vệ sinh chuồng trại, thân thể bò và cuối cùng là phải thực hiện tiêu độc, tiêu diệt côn trùng, chuột...

        Đối với gia súc bị bệnh cần phải cách ly triệt để, điều trị dứt điểm khi khỏi hẳn mới cho nhập vào vị trí cũ.

Tags:

Để lại bình luận