CÁY TRUYỀN PHÔI TRONG GIAI ĐOẠN STRESS NHIỆT CHO TỶ LỆ ĐẬU THAI CAO HƠN
Nguồn: http://www.progressivedairy.com/topics/a-i-breeding/utilize-embryo-transfer-for-higher-conception-rates-during-heat-stress
Để duy trì lợi nhuận, tỷ lệ đậu thai ở bò sữa phải cao. Đây là một thách thức trong suốt những tháng hè bởi những tác động của stress nhiệt
Theo ước tính, stress nhiệt gây thất thoát khoảng 1.5 tỷ đô mỗi năm vì giảm sản lượng sữa và sinh sản. Trong giai đoạn stress nhiệt, tỷ lệ tái đàn giảm xuống khoảng 50%.
Việc gia tăng nhiệt độ, độ ẩm, và ánh nắng mặt trời trong những tháng hè là nguyên nhân của stress nhiệt. Để đo mức độ stress nhiệt mà động vật phải trải qua, các nhà nghiên cứu đã phát triển một chỉ số, đó là chỉ số THI. Chỉ số độ ẩm nhiệt độ (THI) được tính dựa trên việc sử dụng nhiệt độ xung quanh và độ ẩm tương ứng. Nghiên cứu chỉ ra rằng, bò sữa thời kỳ tiết sữa sẽ bắt đầu trải qua giai đoạn stress nhiệt khi THI bằng hoặc lớn hơn 70. Ví dụ, nếu THI = 70 có nghĩa là nhiệt độ là 700F tại mức độ ẩm 100%.
Bởi vì mối tương quan âm giữa stress nhiệt và khả năng sinh sản, các nhà nghiên cứu đã tập trung vào những yếu tố gây nên việc giảm tỷ lệ thụ thai và cách thức để vượt qua tình trạng này.
Một trong những tác động mà stress nhiệt gây ra trên động vật là việc giảm khả năng sinh sản liên quan đến chất lượng của tế bào noãn. Những tác động lên chất lượng của noãn bào có thể quan sát trong hai hoặc ba chu kỳ động dục tiếp theo. Đây là lý do tại sao phải mất đến vài tháng để theo dõi ảnh hưởng của stress nhiệt đến khả năng sinh sản. Nhiệt độ tăng cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của noãn bào và trứng không chín.
Bên cạnh đó, stress nhiệt có thể tác động đến tỷ lệ sinh sản so tăng tỷ lệ chết phôi trong giai đoạn đầu. Điều này được giải thích là phôi thai rất dễ bị tổn thương và dẫn đến chết sớm khi stress nhiệt xảy ra ngay khi thụ thai, vậy nên giảm khả năng thụ thai và tỷ lệ mang thai.
Với nỗ lực khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của stress nhiệt, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra việc sử dụng các công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART), như kích thích rụng trứng và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Công nghệ này liên quan đến việc thu thập phôi và tế bào trứng từ các động vật cho phôi.
Trong trường hợp kích thích rụng trứng, động vật cho phôi sẽ được sử dụng hooc-mon kích thích nang, giúp phát triển noãn bào trong buồng trứng. Noãn bào sau đó sẽ rụng xuống, và được thụ tinh trong vòi trứng, sau đó sẽ được chuyển đến tử cung trong ngày thứ 5. Chúng có thể được làm sạch từ sừng tử cung của động vật cho phôi trong ngày 6 và 7.
Trong trường hợp IVF, noãn bào được đưa ra khỏi nang buồng trứng của động cho phôi bằng cách sử dụng đầu siêu âm đầu dò. Kỹ thuật này được gọi là Thu thập noãn bào (OPU). Trong lúc phục hồi, các noãn bào sẽ được thụ tinh và được nuôi trong 7 ngày tại phòng thí nghiệm. Những phôi có khả năng sống sót từ cả phương pháp kích thích rụng trứng và IVF có thể sẽ ngay lập tức được cấy cho các động vật nhận phôi hoặc bảo quản đông lạnh để sử dụng sau.
Những công nghệ này cho phép cấy truyền phôi được 7 ngày tuổi. Điều này cũng cho thấy phôi đối kháng lại nhiều những tác động của stress nhiệt. Bên cạnh đó, những công nghệ này cho phép thu thập phôi khi không có stress nhiệt và lưu trữ để sử dụng trong điều kiện stress nhiệt. Những nghiên cứu về cấy truyền phôi cho thấy những phôi được cấy truyền trong những tháng hè thường khá thành công và đem lại kết quả là mang thai.
Những nghiên cứu khác sử dụng phôi được tạo ra từ siêu bài noãn hoặc phương pháp thụ tinh nhân tạo trong suốt thời gian stress nhiệt cho thấy tỷ lệ thụ thai cao hơn so với thụ tinh nhân tạo. Những nghiên cứu so sánh giữa phôi đông lạnh và phôi sống với A.I còn hạn chế những cũng cho thấy nhiều hứa hẹn.
Những nhà nghiên cứu của đại học Florida và Texas A&M đã công bố một nghiên cứu vào năm 2011 so sánh giữa A.I với phôi IVF sống và đông lạnh. Họ nhận ra rằng phôi sống hoặc đông lạnh cho tỷ lệ thụ thai cao hơn so với A.I. Động vật nhận phôi sống có tỷ lệ thu thai cao gấp đôi so với A.I. (42.1 % đối với 18.3%). Trong khi đó, những động vật nhận phôi đông lạnh cũng có tỷ lệ thụ thai cao hơn A.I (29.3% đối với 18.3%).
Thông thường, những phôi thường làm sạch và IVF được sử dụng để tăng số lượng đàn từ những động vật chất lượng cao theo phương thức di truyền, các chi phí liên quan quá cao để áp dụng trong việc sản xuất sữa thương mại. Nhưng, gần đây, công nghệ IVF được điều chỉnh, khiến phôi trở nên rẻ hơn và thuận tiện hơn trong ngành công nghiệp sản xuất sữa.
Việc sử dụng phôi siêu bài noãn và IVF là một lựa chọn khả quan để khắc phục những tác động tiêu cực của stress nhiệt. Dù lựa chọn phương pháp nào, việc phân tích lợi ích - chi phí cần được thực hiện cẩn thận trước khi áp dụng công nghiệ này để xác định nó có phù hợp với trang trại của bạn hay không.